Ông Hồ Minh Sơn, Viện trưởng Viện IMRIC chia sẻ về giải pháp tránh rủi ro trước “Liên kết” giữa ngân hàng và Fintech?
Tin tức 07/02/2022 07:41
Qua đó, các doanh nghiệp Fintech hiện đã tận dụng sức mạnh của công nghệ hiện đại để tạo ra sự đột phá trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính - ngân hàng. Điển hình, về việc giảm chi phí, tăng độ tiện dụng, cũng như cá nhân hóa các sản phẩm tài chính, từ đó nâng cao trải nghiệm của khách hàng. Mặt khác, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của Internet, khách hàng ngày càng có yêu cầu cao, có nhu cầu cá thể hóa các sản phẩm tiêu dùng và yêu cầu dịch vụ phải được phục vụ nhanh và tối ưu. Sự tác động của fintech là mạnh mẽ và toàn diện đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó, những tác động công nghệ tài chính và nêu ra một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong ứng dụng fintech, đề xuất một số giải pháp để chủ động triển khai việc ứng dụng công nghệ tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Đồng thời, sự linh hoạt trong hoạt động và giải pháp công nghệ có tính đột phá, doanh nghiệp công nghệ tài chính (Fintech) đã thổi một luồng gió mới vào hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hàng khi cung ứng các sản phẩm, dịch vụ hướng tới việc nâng cao trải nghiệm và sự hài lòng của khách hàng. Nhưng các chuyên gia cho rằng, để tránh rủi ro không đáng có và thắt chặt mối quan hệ này, ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng ban hành hành lang pháp lý thử nghiệm (Sandbox), vốn đã được “thai nghén” từ rất lâu.
Fintech là viết tắt của từ financial technology (công nghệ tài chính), đây cũng là một thuật ngữ rộng được sử dụng chung cho tất cả các công ty sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để cung cấp dịch vụ tài chính. Fintech là công nghệ mới và đổi mới nhằm cạnh tranh với các phương pháp tài chính truyền thống trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Fintech có thể được xem như là sản phẩm của cuộc CMCN 4.0 trong hoạt động tài chính - ngân hàng. Như vậy, việc sử dụng điện thoại thông minh cho dịch vụ ngân hàng di động, dịch vụ đầu tư và tiền mã hóa là những ví dụ về công nghệ nhằm làm cho các dịch vụ tài chính dễ tiếp cận hơn với công chúng. Các công ty công nghệ tài chính bao gồm cả công ty mới thành lập, các công ty tài chính và công nghệ cố gắng thay thế hoặc tăng cường việc sử dụng các dịch vụ tài chính do các công ty tài chính hiện có cung cấp.
Mới đây, ngân hàng Nhà nước đã có số liệu thống kê, từ năm 2016 đến nay, số lượng các công ty Fintech tham gia cung ứng dịch vụ tại thị trường Việt Nam tăng khoảng 4 lần, hoạt động tại nhiều lĩnh vực khác nhau như thanh toán, chuyển tiền, cho vay, tài chính cá nhân…Cụ thể, có đến 72% công ty Fintech đã liên kết với ngân hàng, chỉ có 14% phát triển dịch vụ mới và 14% sẵn sàng cạnh tranh với ngân hàng. Cùng với đó, VietinBank đang hợp tác với 7 công ty Fintech trong các lĩnh vực khác nhau nhằm đưa ra các sản phẩm mang yếu tố công nghệ và tài chính - ngân hàng để phục vụ khách hàng. Tương tự, BIDV đã kết nối với 24 công ty Fintech, 756 nhà cung cấp dịch vụ để cung cấp trên 1.500 dịch vụ thanh toán chi tiêu cho khách hàng.
Song song đó, MBbank đã hợp tác với Công ty Boomerang Technology cho ra đời sản phẩm eMBee Fanpage, cho phép khách hàng thực hiện tra cứu số dư, chuyển tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm, vay vốn chỉ bằng thao tác đơn giản là “chat” với eMBee thông qua ứng dụng tin nhắn Facebook Messenger.
Ngoài ra, Vietcombank đã hợp tác với Công ty cổ phần di động trực tuyến (M_Service) để thực hiện dịch vụ chuyển tiền giá trị nhỏ ở khu vực nông thôn. Thậm chí, hầu hết các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đều đã “bắt tay” với ví MoMo để phát triển ví điện tử.
Chia sẻ về điều này, ông Hồ Minh Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) cho rằng, với sự phát triển và ứng dụng các công nghệ mới của Fintech như Big data, blockchain, hệ thống định dạng cá nhân sinh trắc học, định danh khách hàng điện tử...Điều này, sẽ giúp các ngân hàng thu thập dữ liệu, cải tiến chất lượng dịch vụ, giảm chi phí hạ tầng kỹ thuật, giảm mạng lưới chi nhánh, tăng cường tính minh bạch. Tuy nhiên, vẫn đảm bảo an toàn, nhanh chóng, hiệu quả, gia tăng sự hài lòng hơn cho khách hàng. Có thể thấy, Fintech tạo ra các giải pháp tài chính cho khách hàng ở vùng sâu, vùng xa hoặc những khách hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính do những rào cản về thủ tục hoặc địa lý, hỗ trợ tốt hơn cho nhóm khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực cho biết, sự hợp tác hai bên còn chưa sâu do quy mô thị trường Fintech tại Việt Nam còn nhỏ. Vì vậy, chiến lược M&A giữa ngân hàng và Fintech chưa phổ biến như thế giới. Bởi lẽ, phân khúc khách hàng vẫn có sự tách biệt, thị trường Fintech Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thanh toán (90%), còn các ngân hàng vẫn chủ yếu là tín dụng (80%).
Do đó, các ngân hàng có quy mô lớn, chủ yếu là các ngân hàng thương mại nhà nước đang hướng đến việc thành lập trung tâm ngân hàng số được coi là trung tâm đổi mới, sáng tạo công nghệ tài chính cho ngân hàng. Ngân hàng đầu tư cho việc phát triển công nghệ tài chính từ nguồn lực nội bộ.
Mặc dù, chỉ mới hình thành và phát triển hơn 10 năm nay nhưng các ứng dụng đa dạng của Fintech đang tác động đến hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của cả hệ thống tài chính - ngân hàng. Song, những sản phẩm của Fintech đã và sẽ thay đổi hoàn toàn diện mạo, hệ thống cũng như các phương thức giao dịch tài chính truyền thống.
Đặc biệt, Chính phủ đã cho phép triển khai các hoạt động định danh khách hàng điện tử (eKYC) thông qua Nghị định 87/2019/NĐ-CP và Thông tư 16/2020/TT- NHNN. Thế nhưng, việc triển khai định danh khách hàng ở ngân hàng và Fintech đều đang gặp nhiều khó khăn do không có cơ sở dữ liệu số tin cậy để đối chiếu, các nguồn thông tin khách hàng phân tán và thiếu tính tin cậy.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC), khuyến nghị: “Việc nghiên cứu đưa sản phẩm/dịch vụ vào thị trường thường tốn nhiều thời gian do đòi hỏi kết nối giữa các ngân hàng, các tổ chức Fintech, các nhà cung cấp dịch vụ. Tại Việt Nam hiện chưa có các quy định về API mở (Open API) để các bên thứ ba kết nối vào cùng một nền tảng dùng chung thay vì phải thiết lập riêng từng kết nối với từng đối tác riêng lẻ”. Để gỡ rào cản pháp lý, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Regulatory Sandbox). Đây là một cơ chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua việc thiết lập một môi trường thực để thử nghiệm các giải pháp Fintech với khách hàng thật nhưng chịu giới hạn, ràng buộc về không gian (như hạn mức giao dịch, lượng người dùng…), thời gian (từ 1-2 năm), không gian địa lí và phải đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý về tài chính-tiền tệ.
Tại Đông Nam Á các nước như Singapore, Malaysia và Thái Lan là ba quốc gia đầu tiên ban hành Sandbox. Ví dụ, việc áp dụng Sandbox cho hoạt động Fintech giúp thị trường tài chính Singapore trở thành một trong những hệ sinh thái Fintech và thị trường tài chính năng động, biến quốc gia này thành Trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu thế giới.
Tại Việt Nam, ngân hàng Nhà nước đã chủ động tiếp cận lĩnh vực này thông qua việc thành lập ban chỉ đạo về lĩnh vực Fintech vào tháng 3/2017 với mục tiêu hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cũng như tạo một hệ sinh thái lành mạnh cho sự phát triển của các công ty Fintech tại Việt Nam. Cụ thể hóa mục tiêu nêu trên, đến nay cơ quan này đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan dự thảo Bộ hồ sơ đề nghị xây dựng nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng, trình Thủ tướng Chính phủ.
Cụ thể, ngày 6/9/2021 mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP 2021 thông qua đề nghị xây dựng Nghị định của Chính phủ về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Trong đó, Chính phủ yêu cầu ngân hàng Nhà nước cố gắng xây dựng dự thảo Sandbox cho Fintech để trình Chính phủ trong quý 4/2021.
Còn theo ông Phạm Xuân Hoè, nguyên Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược ngân hàng Nhà nước, cơ quan quản lý 3-4 năm liền thúc đẩy cơ chế cho Fintech, nhưng rào cản vẫn chỉ dừng ở dự thảo vì vướng ở tư duy chính sách. Ông Phạm Xuân Hoè, nhấn mạnh: “Công nghệ, mô hình kinh doanh, sản phẩm đều đã thay đổi, thì chính sách phải thay đổi. Muốn được vậy, tư duy những người làm chính sách phải thay đổi theo, không thể mang cái cũ chụp sang cái mới. Tôi cho rằng, chúng ta cần có tư duy vượt trội, vượt khỏi rào cản cũ, hành lang cũ”, ông Hoè chia sẻ.
Ông Hồ Minh Sơn chia sẻ thêm, ngân hàng Nhà nước mới đây đã cấp phép thí điểm Mobile Money cho VNPT, Viettel và MobiFone. Trong đó, Mobile Money đã “tiên phong” việc triển khai thí điểm áp dụng cơ chế Sandbox đối với lĩnh vực cụ thể, từ đó có thể trở thành hình mẫu để áp dụng mô hình này đối với các lĩnh vực khác, mở ra cơ hội cho nhiều dịch vụ, ngành nghề mới, đặc biệt đối với lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Viện trưởng IMRIC, nhấn mạnh: “Có thể thấy, thời gian thí điểm chỉ có 2 năm về dịch vụ này kể từ thời điểm doanh nghiệp đầu tiên thực hiện thí điểm được chấp thuận triển khai. Nhưng tôi tin đây sẽ là bước khởi đầu để các Sandbox khác sẽ được áp dụng nhanh hơn với nhiều lĩnh vực tại Việt Nam”.
Tin rằng, với những lợi ích rõ ràng sự trỗi dậy của Fintech cũng kèm theo nhiều thách thức, tác động trực tiếp đến các ngân hàng và những thành viên Fintech mới tham gia vào lĩnh vực tài chính, thì vấn đề kiểm soát an ninh mạng, chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, đào tạo nhân lực cũng cần được quan tâm .