Chuyện của vợ chồng chiến sĩ Biện Biên và nữ dân công hỏa tuyến
Xã hội 01/03/2023 14:37
Kí ức thời hoa lửa
Năm nay, cụ Lê Đình Hưng sang tuổi 91, song vẫn rất minh mẫn. Chuẩn bị trò chuyện với nhà báo, cụ cẩn thận tự viết tay hơn chục trang giấy. Khi trò chuyện, cụ kể rành mạch: Cụ sinh năm 1933, tại thôn Quan Nội, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, trong gia đình làm nghề bốc thuốc bắc. Trong khí thế cách mạng Tháng Tám (1945) sục sôi khắp nơi, cụ tham gia vào đội thiếu niên, thanh niên cứu quốc, tiếp đó tham gia dạy bình dân học vụ diệt “giặc dốt”, rồi làm cán bộ thôn.
Tháng 3/1953, chàng thanh niên Lê Đình Hưng gác lại hạnh phúc riêng tư, xa người vợ trẻ để lên đường đi dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch Thượng Lào. Đến tháng 7/1953, xung phong đi bộ đội, tháng 2/1954, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ bước vào cao điểm cuộc chiến. Nói về chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, cụ Hưng giọng hào sảng: “Tôi được phân vào tiểu đội trực tiếp chiến đấu, thuộc Tiểu đoàn 930, Trung đoàn 148. Bước vào chiến dịch, chúng tôi đều xác định tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng hi sinh để giải phóng đất nước. Tôi vinh dự được cùng đoàn quân chiến thắng từ Điện Biên tham gia Lễ duyệt binh đầu tiên ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Tôi cố gắng giữ gìn sức khoẻ để đến dịp sang năm 2024, kỉ niệm 70 năm giải phóng Điện Biên (7/5/1954) lên thắp nén hương cho các anh em đồng đội, anh hùng liệt sĩ tại Điện Biên.
Vợ chồng cụ Lê Đình Hưng và cụ Lê Thị Điệng |
Còn cụ bà Lê Thị Điệng, người cùng quê, sinh năm 1934, trong gia đình nhà nho. Sau khi chồng đi dân công hỏa tuyến chưa đầy nửa năm, tháng 8/1953 đến tháng 11/1953, cô thôn nữ Lê Thị Điệng cũng xung phong tham gia dân công gánh gạo từ Thanh Hóa đến ngã ba Cò Nòi, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Không quản ngại khó khăn vất vả, ở quê chăm sóc bố mẹ chồng, cáng đáng công việc gia đình, tham gia dân quân du kích, dạy bình dân học vụ, chờ chồng thắng giặc trở về…
Nói về gia đình Cách mạng, cụ Hưng tự hào: “Gia đình chúng tôi luôn một lòng tin theo Đảng, Bác Hồ. Ngoài vợ chồng tôi tham gia phục vụ kháng chiến, còn hai em trai của tôi đều đi bộ đội tham gia chống Mỹ, trong đó em trai út là Lê Đình Tư tham gia chống Mỹ ở chiến trường miền Nam bị địch bắt giam cầm tại nhà tù Phú Quốc, dù bị tra tấn dã man nhưng quyết không khuất phục.
Sống có tâm, có đức, có ích cho xã hội
Nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, tháng 5/1958, cụ Hưng cùng đơn vị (Trung đoàn 148) chuyển sang xây dựng Nông trường Tô Hiệu, thuộc khu tự trị Thái Mèo, có trụ sở tại Hát Lót, huyện Mai Sơn, là những người đầu tiên có mặt trong ngày thành lập Nông trường Tô Hiệu, nay là trung tâm thị trấn Hát Lót. Tiền tuyến gọi, hậu phương sẵn sàng, cụ Điệng đồng hành cùng chồng lên xây dựng kinh tế trên vùng Tây Bắc, làm công nhân Nông trường Tô Hiệu.
Bước sang mặt trận kinh tế, cụ Hưng quyết chí vừa học, vừa làm nâng cao trình độ, vận dụng những kiến thức, kết hợp với những kinh nghiệm và hết lòng hết sức vì việc chung, nên luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Cụ đã được giao đảm nhận nhiều chức vụ ở các cơ quan, đơn vị: Kế toán trưởng Nông trường Tô Hiệu (1966 - 1976); theo tiếng gọi của Đảng và phân công của Tổ chức, tháng 6/1976, cụ vào tiếp quản các cơ sở kinh tế của miền Nam sau giải phóng, và giữ chức Trưởng phòng Kế toán tài vụ, Công ty Bông Trung ương (Bộ Nông nghiệp) từ 1976 - 1981. Năm 1982, cụ trở ra Bắc và giữ chức Giám đốc Công ty Giống thức ăn gia súc Sơn La (1982 - 1984); Trưởng phòng Kế toán tài vụ Ty Nông nghiệp Sơn La (1984 - 1986). Từ tháng 11/1986, do điều kiện gia đình, cụ xin nghỉ chế độ, trú tại tiểu khu 21, thị trấn Hát Lót.
Về địa phương, cụ vẫn phát huy tinh thần chiến sĩ Điện Biên, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, từ năm 1989 - 1994, cụ được tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch UBND thị trấn Nông trường Tô Hiệu, Chủ tịch MTTQ thị trấn; nhiều năm là Bí thư chi bộ thuộc Đảng bộ thị trấn Hát Lót.
Còn cụ Điệng lao động sản xuất tốt, có trình độ văn hóa, nên được lãnh đạo Nông trường cử đi học lớp nữ hộ sinh (của Quân khu Tây Bắc) về làm chuyên môn tại Khoa Sản, Bệnh xá của Nông trường. Trong chiến tranh, máy bay Mỹ bắn phá ác liệt, cụ thường xuyên đi xuống tất cả 24 đội của Nông trường, từ Cò Nòi đến các điểm trên cao nguyên Nà Sản, đội xa nhất là 15km để khám bệnh, giúp hàng ngàn lượt phụ nữ vượt cạn, đón hàng ngàn đứa trẻ chào đời. Khi Bệnh xá sơ tán tránh máy bay Mỹ bắn phá, cụ cùng cán bộ Bệnh xá leo đèo, gánh cơm phục vụ bệnh nhân chu đáo, coi bệnh nhân như người thân. Nhiều trường hợp hoàn cảnh khó khăn, bà nấu cơm, cháo, mang đường của gia đình để giúp đỡ, động viên. Năm 1976, sau khi đất nước giải phòng, cụ Hưng vào Nam công tác, một mình cụ vừa làm việc cơ quan, vừa gánh vác gia đình, nuôi dạy 6 người con (con lớn nhất 15 tuổi, con út mới 1 tuổi). Cụ hoàn thành tốt công việc cơ quan, không bỏ một buổi trực đêm nào. Đến năm 1983, cụ nghỉ chế độ.
Sau 65 năm xa quê, lên xây dựng quê hương thứ hai, nhưng lòng vẫn luôn đau đáu nỗi nhớ quê, hai cụ vẫn luôn tích cực đóng góp, công đức cho dòng tộc, quê hương; luôn nêu gương sáng trong gia đình và nơi cư trú; quan tâm giáo dục con, cháu, chắt phải sống có tâm, có đức, có ích cho xã hội. Dịp Tết Dương lịch hằng năm, gia đình đều tổ chức tụ họp con, cháu, chắt ở các vùng miền của đất nước vừa ăn Tết, nhắc nhở giữ truyền thống cách mạng của gia đình, vừa tổ chức động viên, khen thưởng các cháu, chắt học tập tốt trong năm học. Con, cháu, chắt của hai cụ, nay đã có nhiều người trình độ đại học, thạc sĩ, công tác trong lực lượng Công an, Quân đội, đảm nhận vị trí nhất định trong cơ quan Nhà nước.
Ghi nhận những đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, cụ Lê Đình Hưng vinh dự được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy chương Chiến thắng hạng Nhì, Huy chương Kháng chiến hạng Hai của nước CHDCND Lào, Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên; được trao tặng Huy hiệu Đảng 30 năm, 40 năm, 50 năm, 55 năm, 60 năm; nhiều Bằng khen của Khu tự trị Thái Mèo, của tỉnh Sơn La. Còn cụ Điệng vinh dự được tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; có 3 năm được công nhận Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh; Bằng khen của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; 4 Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La; Huy hiệu Đảng 30 năm, 40 năm, 50 năm, 55 năm.