Chuyện của người góp phần làm nên chiến thắng “chấn động địa cầu”
Sự kiện 02/05/2023 11:00
Đó là cụ Nguyễn Tịnh, 93 tuổi, hiện ở thôn Dốc Mới, xã Sơn Hà, huyện hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Đầu Xuân Quý Mão vừa qua, cụ được UBND tỉnh và Hội NCT tỉnh Lạng Sơn gửi quà chúc mừng. Tuy đã ở tuổi đại thọ nhưng cụ đi lại vẫn còn nhanh nhẹn, ăn được, ngủ được, trí tuệ còn minh mẫn. Đọc báo, nghe đài đối với cụ như cơm bữa hàng ngày.
Cụ Nguyễn Tịnh. |
Dạo này cụ thường đi chơi thăm thú bà con trong xóm, ngoài làng hoặc thỉnh thoảng lại mời bạn bè thân thiết tâm đầu, ý hợp đến chơi để đàm đạo về thời cuộc, nhân tình thế thái. Tôi thuộc loại khách này của ông. Kém cụ hơn một giáp nên tôi được cụ coi là bạn vong niên. Lại đều là cựu chiến binh nên cụ coi tôi như người thân trong gia đình, chuyện trò thân mật, thoải mái, bình đẳng và tôn trọng nhau.
Lần này đến chơi với cụ đúng vào dịp kỉ niệm 69 năm ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” (7/5/1954 - 7/5/2023) nên phần lớn thời gian tôi được nghe cụ kể về “những năm tháng không thể nào quên” về cuộc đời binh nghiệp của mình.
Rót nước mời tôi, cụ hào hứng kể: “Năm 1950, vừa tròn 20 tuổi, tôi gia nhập Quân đội, được biên chế vào Đại đội pháo mặt đất 45 li, thuộc Trung đoàn 45, Đại đoàn 351. Địa bàn hoạt động của đơn vị tôi là vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Tôi đã được tham gia chiến đấu nhiều trận lớn nhỏ, đặc biệt là chiến dịch Hà - Nam - Ninh (1951) và chiến dịch Hòa Bình (1952). Giữa năm 1953 cùng với trên 100 chiến sĩ khác, tôi được cử sang Trung Quốc nhận viện trợ vũ khí (pháo mặt đất 105 li). Thời điểm đó loại vũ khí này đã vào loại hiện đại nhất của Quân đội ta.
Gần 3 tháng được các chuyên gia kĩ thuật quân sự Trung Quốc hướng dẫn sử dụng và quản lí pháo 105 li, cuối năm 1953, chúng tôi nhận bàn giao và đưa pháo về. Đến biên giới vì đường xá hiểm trở, phải qua nhiều sông, suối và đèo dốc không thể kéo pháo được nên chúng tôi phải tháo rời từng bộ phận của pháo ra cho từng người, từng tốp vác, khiêng … Qua một số tỉnh, một số vùng, ở đâu cũng rừng, cũng núi trùng trùng điệp điệp, núi tiếp núi, đèo tiếp đèo. Đến địa phận tỉnh Phú Thọ thì dừng lại ở một khu đồi cọ để bảo dưỡng và lắp ráp lại đồng bộ cho pháo. Một chương trình “tái huấn luyện” được bắt đầu ít ngày nữa.
Rời Phú Thọ, hành quân ít ngày nữa là đến tỉnh Lai Châu. Từ đây đến Điện Biên Phủ không còn xa, nhưng lại là đoạn đường khó khăn nhất đối với cánh pháo thủ chúng tôi. Nhiều đèo lắm dốc, có con dốc cao đến 60 - 65 độ, không những vừa phải kéo pháo, vừa phải cùng với lực lượng thanh niên xung phong sửa chữa và mở rộng đường cho pháo “đi”.
Để hoàn thành đúng thời hạn, chúng tôi phải làm việc mỗi ngày 12 - 13 giờ liền. Gay nhất là vấn đề dụng cụ. Chúng tôi phải chia thành nhiều kíp, thực hiện khẩu hiệu: “Người nghỉ, dụng cụ không nghỉ!”. Thế mà dụng cụ vẫn không đủ, có chỗ phải lấy đá đập đá, lấy vỏ bom cắt đôi làm vồ nện đất.
Muốn phá đá nhanh, phải dùng mìn. Để giữ bí mật (chỉ cách địch vài ki lô mét), chúng tôi đặt sâu trong vách đá những lượng thuốc nhỏ, chờ khi nào pháo địch bắn mới cho nổ mìn. Đất phá ra, đổ xuống suối, nhuộm đỏ ngầu cả dòng nước. Để giữ bí mật, phải đắp hàng loạt kè lọc nước những dòng suối chảy về Mường Thanh.
Ban đêm đốt đuốc làm đường, máy bay đến phải tắt đuốc, công việc phải chậm lại rất lâu. Anh em nghĩ ra “hố giấu đuốc” đào rải rác cạnh nơi làm việc. Có tiếng máy bay cho đuốc vào hố đậy nắp lại. Máy bay đi, lấy đuốc ra khua khua vài vòng lửa lại bùng lên. Có những đoạn dùng đuốc không tiện phải cho người cầm vải trắng đi trước làm mục tiêu dẫn đường.
Pháo đã được kéo tới đích đúng kế hoạch. Lại ngụy trang, lại đào hầm cho pháo “ở” và chờ lệnh nhả đạn. Hồi hộp vô cùng.
Vào 17 giờ ngày 13/3/1954, trận mở màn chiến dịch bắt đầu. Pháo chúng tôi đã yểm trợ rất hiệu quả cho bộ binh, nã vào mục tiêu bách phát, bách trúng. Bão lửa rung trời chuyển đất của quân ta trùm lên cứ điểm mà địch khoác lác nói là “Pháo đài không thể công phá nổi”. Đó là đợt thứ nhất từ ngày 13 đến 17/3, quân ta nhanh chóng tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu phía Bắc.
Kết thúc đợt thứ nhất, chúng tôi lại được lệnh di chuyển chiếm lĩnh trận địa cho các đợt chiến đấu tiếp theo …
Việc kéo pháo vào trận địa vẫn vô cùng khó khăn, gian khổ. Bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân (sáng tác kịp thời tại trận địa) đã động viên chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi hát với một niềm tin tưởng, phấn khởi: “… Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi/ Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù. Hò dô ta nào …”.
Tháng 1/1971, cụ được nghỉ hưu. Nghỉ việc lính trở về địa phương nhưng được dân mến, Đảng tin nên ông lại ra gánh vác việc làng, việc xã hàng chục năm nữa. Cụ là đại biểu HĐND nhiều khóa, Đảng ủy viên, Thường trực Đảng ủy, rồi Bí thư Đảng ủy xã Sơn Hà. Với cương vị Bí thư Đảng ủy, cụ thường xuyên đi sâu, đi sát chỉ đạo các phong trào ở địa phương, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng kịp thời, đưa xã Sơn Hà luôn luôn là một xã trong tốp đứng đầu của huyện Hữu Lũng. Đảng bộ xã Sơn Hà liên tục đạt “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”, nhiều năm được cấp trên khen thưởng.
Giờ thì cụ đã được nghỉ ngơi và sống vui vẻ, hạnh phúc với gia đình, con cháu.
Tôi cảm nhận về cụ: Một con người giàu bản lĩnh, luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, một người đảng viên mẫu mực đáng để cho lớp con cháu ở địa phương học tập noi theo.