Nguyên mẫu nhân vật trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam
Xã hội 23/01/2023 08:10
Những câu thơ trong bài thơ nổi tiếng “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ - liệt sĩ - Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Lê Anh Xuân, đã phản ánh trung thực khí phách hiên ngang, dũng mãnh của các chiến sĩ giải phóng quân trong trận đánh ác liệt tại sân bay Tân Sơn Nhất đêm 31/1/1968. Một trận đánh không cân sức, không giống bất cứ một trận đánh nào. Tuy nhiên, có lẽ rất ít người biết về những nguyên mẫu đã giúp nhà thơ Lê Anh Xuân viết lên thi phẩm nổi tiếng này.
Đêm lịch sử
Anh Nguyễn Văn Quảng (Năm Quảng), nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nguyên Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân đoàn 4, nguyên Chủ nhiệm Chính trị quân Giải Phóng miền Nam kể với tôi:
Sau Tết Mậu Thân 1968, trong giao ban Bộ Tư lệnh Miền, bên tác chiến báo cáo việc đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, tiểu đoàn 16 chủ lực quân giải phóng chiến đấu cực kì dũng cảm. Theo tin từ cơ sở nội thành Sài Gòn báo lên, lính Việt Nam Cộng Hòa tham gia trận đánh kể với gia đình, họ ca ngợi hết lời khí phách của các chiến sĩ quân giải phóng. Có nhiều anh giải phóng quân đứng tựa vào trực thăng, súng vẫn lăm lăm trong tay, địch cứ nghĩ các anh còn sống, có nhiều tên giơ tay xin hàng nhưng sự thực là các anh đã chết và đứng tựa vào trực thăng, xe thiết giáp của địch trong sân bay. Dự giao ban có nhà báo - nhà thơ Lê Anh Xuân. Anh Xuân xúc động và đã sáng tác bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”.
Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. |
… Trong ngày lịch sử ấy, tiểu đoàn 16 tiến về sân bay Tân Sơn Nhất. Theo kế hoạch tác chiến đúng 2 giờ sáng, pháo binh DKB của Miền sẽ bắn vào sân bay là tiếng súng phát lệnh tiến công cho cả 5 cánh quân đánh vào Sài Gòn. Nhưng giờ G đã trôi qua, sân bay Tân Sơn Nhất vẫn yên tĩnh. Các đơn vị nội thành đã nổ súng. Lúc ấy không ai biết vì sao pháo binh của miền không bắn được vào sân bay. Như vậy là trận đánh không có pháo hỏa chuẩn bị như kế hoạch ban đầu. Bộ Chỉ huy phân khu 2 buộc phải sử dụng cối 82 li bắn vào sân bay được 36 quả, chỉ đủ ra lệnh cho 3 tiểu đoàn 16, 267, 12 tiến công. Tiểu đoàn 16 là đơn vị bộ binh đặc biệt tinh nhuệ được chia làm 2 bộ phận. Đại đội dự bị và trợ chiến bố trí ở khu vực Hãng dệt Vinatexco (Công ty dệt Thắng Lợi hiện nay), do đồng chí Tiểu đoàn phó Phan Thái Nguyên chỉ huy, cách sân bay khoảng 1km về phía Tây. Mũi chủ công do Tiểu đoàn trưởng Nam Sơn và Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu chỉ huy thọc sâu từ hướng Tây vào sân bay Tân Sơn Nhất. Do được phổ biến trước sẽ có lực lượng phản chiến trong hàng ngũ thiết giáp địch nên trước khi có lệnh nổ súng, Tiểu đoàn trưởng Nam Sơn và Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu đã vào sát hàng rào sân bay thấy những chiếc xe thiết giáp dàn hàng ngang ở bên trong đều có cắm cờ xanh. Đồng chí Sáu còn nhắc bộ đội nhớ kĩ hiệu cờ xanh, đèn xanh là lực lượng binh biến nên không bắn. 2 đại đội của Tiểu đoàn 16 có trinh sát, đặc công dẫn đường đã cắt dây thép gai và các bãi mìn tiếp cận hàng rào cuối cùng nằm chờ lệnh hợp đồng chiến đấu. Khi có lệnh nổ súng, Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu dẫn đầu 1 đại đội vượt qua cửa mở chọc thẳng vào sân bay. Nhưng khi đụng vào lực lượng thiết giáp địch có cắm cờ xanh thì chúng nã đạn như mưa về phía bộ đội ta. Cuộc chiến đấu bất ngờ ngoài dự kiến đã diễn ra vô cùng ác liệt. Bộ đội ta bắn cháy nhiều xe thiết giáp và sau đó quần nhau với quân “dù” từ phía trong sân bay phản kích ra.
Đồng chí Phan Văn Tiệp, quê ở xã Thạch Định, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa; chiến sĩ Tiểu đoàn 16, trực tiếp chiến đấu trong trận này nhớ lại: “Lúc ấy Tiểu đoàn 16 bị cắt làm đôi, một nửa còn ở ngoài sân bay do Tiểu đoàn trưởng Nam Sơn chỉ huy, nửa dẫn đầu đã vào sân bay do Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu chỉ huy. Anh em chúng tôi thường gọi là anh Sáu Bắc. Lúc bấy giờ địch đã cho xe tăng và quân dù ra bịt cửa mở. Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu và anh em chúng tôi bảo nhau sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Từng tiểu đội, từng tổ bám vào những chiếc xe thiết giáp đã bị bắn cháy và bắn hỏng làm điểm tựa để chiến đấu. Quân địch tổ chức tiến công nhiều đợt và phát loa kêu gọi ta đầu hàng. Chúng biết lực lượng ta vào trong sân bay rất ít. Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu ra lệnh dành đạn B40 để bắn xe bọc thép và máy bay, chỉ dùng tiểu liên, AK, lựu đạn và vũ khí của địch để diệt bộ binh địch. Quân địch chết la liệt, có đến hàng nghìn tên, nhưng bộ đội ta thương vong cũng nhiều. Có đồng chí lúc hi sinh vẫn còn dựa vào xác máy bay, xác xe bọc thép và súng vẫn cầm trong tay như chờ địch đến gần để nhả đạn. Bọn địch có đứa trông thấy đã hoảng hốt giơ tay xin hàng”. Đồng chí Tiệp nói thêm: “Tiểu đoàn 16 trong đêm đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất hi sinh gần 400 đồng chí, trong đó có 127 đồng chí hi sinh ngay trong sân bay Tân Sơn Nhất. Cán bộ chiến sĩ hầu hết còn rất trẻ. Được huấn luyện rất bài bản 1 năm trời. Đây là tiểu đoàn bộ binh đặc biệt tinh nhuệ”.
Chuyện sau trận đánh
Thượng sĩ Lê Hoàng Nam, nguyên Tổ trưởng tổ cứu hỏa của sân bay Tân Sơn Nhất thời Mỹ-ngụy kể: “Sau hòa bình, tôi thường không ngủ được. Cứ thấy anh em về báo mộng nhắc tôi, chỉ ngôi mộ tập thể ở sân bay cho chính quyền Cách mạng. Vợ tôi cũng khuyên nhủ rằng, ông chỉ là người chôn cất anh em, có gì mà phải sợ. Nên tôi đã báo cho chính quyền biết ngôi mộ tập thể chôn 180 bộ hài cốt liệt sĩ quân giải phóng hi sinh trong đêm 31/1/1968, do chúng tôi trực tiếp mai táng. Chính quyền Cách mạng đã di dời 180 bộ hài cốt liệt sĩ về Nghĩa trang TP Hồ Chí Minh”.
Đại tá Nguyễn Văn Cẩn tâm sự với tôi: “Nguyễn Văn Sáu là em ruột của mình. Hồi ấy mình còn công tác ở Cục Cán bộ, lúc chú ấy và Tiểu đoàn 16 đi Nam, mình có vào thăm. Anh em còn trẻ lắm. Hầu hết là thanh niên chưa vợ con gì nhưng khí thế quyết tâm chiến đấu rất cao. Lịch sử Tiểu đoàn 16 rất ngắn ngủi, sau hòa bình mình có đi tìm hiểu gặp được một số cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn trong đó có một số anh em trực tiếp tham chiến trong sân bay Tân Sơn Nhất và bị địch bắt làm tù binh. Họ còn sống ở Tây Ninh, Long An và TP Hồ Chí Minh. Qua lời kể của anh em, mình biết chú Sáu hi sinh rất anh dũng. Chú ấy là một cán bộ xông xáo, nhiệt tình, trách nhiệm và rất gan dạ. Trong đêm chiến đấu ấy, với cương vị Chính trị viên tiểu đoàn, lẽ ra chú ấy có thể ở phía sau để chỉ huy nhưng chú ấy đã dẫn đầu đơn vị thọc sâu, đánh hiểm vào sân bay Tân Sơn Nhất. Bây giờ 127 liệt sĩ của Tiểu đoàn 16 trong ngôi mộ tập thể của nghĩa trang liệt sĩ TP Hồ Chí Minh, trong đó có 113 liệt sĩ quê miền Bắc. Đến nay nhiều gia đình vẫn chưa được thông báo để họ vào viếng hoặc quy tập về địa phương. Nhiều gia đình vẫn cầm tờ giấy báo tử từ năm 1971 là “hi sinh ở mặt trận phía Nam. Có gia đình đi khắp miền Nam hi vọng nếu không tìm ra hài cốt thì cũng mong biết được tung tích của người thân. Gặp lại đồng đội cũ của chú Sáu, mình biết được hành động anh hùng của chú ấy trong chiến đấu, gia đình cũng được an ủi phần nào. Tiếc rằng phiên hiệu Tiểu đoàn 16 không còn. Thời gian đi qua, chiến tranh lùi vào dĩ vãng đã gần 55 năm, hầu như không ai nhắc đến Tiểu đoàn 16. Lịch sử TP Hồ Chí Minh, lịch sử Quân khu 7, khi nói về cuộc chiến đấu Tết Mậu Thân 1968 cũng bỏ sót chiến công, sự hi sinh của Tiểu đoàn 16. Có đồng chí chỉ huy Phân khu 2, khi chúng tôi hỏi cũng nhớ nhớ quên quên và còn nhầm lẫn giữa Tiểu đoàn 16 với Trung đoàn 16 của Sài Gòn Gia Định. Chiến công có thật, những người còn sống của Tiểu đoàn 16 gặp nhau vẫn tôn vinh chú Sáu nhà tôi là người anh hùng. Họ đã tích cực làm các thủ tục và kiến nghị cấp trên phong Anh hùng cho chú ấy và phong Anh hùng cho tiểu đoàn 16 năm xưa. Nhân dịp kỉ niệm 45 năm Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân, chú Nguyễn Văn Sáu nhà tôi và Tiểu đoàn 16 đã được truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân”.
Cũng ít người biết chiến công của Tiểu đoàn 16 trong đêm 31/1/1968, chính là niềm cảm hứng để nhà thơ - Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Lê Anh Xuân viết nên “Dáng đứng Việt Nam”, với những vần thơ bất hủ về người chiến sĩ.
“Anh tên gì hỡi anh yêu quý/ Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng/ Như đôi dép dưới chân anh dẫm lên bao xác Mỹ mà vẫn một màu bình dị sáng trong/ Không một tấm hình không một dòng địa chỉ / Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ/ Anh là chiến sĩ giải phóng quân/ Tên anh đã thành tên đất nước/ Ôi anh giải phóng quân, từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát những mùa Xuân”.