Một đời đau đáu với Truyện Kiều
Tuổi cao gương sáng 14/07/2018 08:23
Học trò của cụ thường kể với nhau rằng, yêu Truyện Kiều thì ai cũng yêu nhưng dành cả đời với tác phẩm kinh điển này như cụ thì quả là xưa nay hiếm. Mọi ngóc ngách trong căn nhà giản dị của cụ chứa đầy sách, khiến người ta tưởng đây là kho sách của một thư viện. Cụ bảo, “kho sách” đó là “bảo vật gia truyền” với gần như đầy đủ các bản Truyện Kiều qua các thời kì và được sắp xếp ngăn nắp, trình tự theo mốc thời gian. Có lẽ, nếu nhìn vào những cuốn sách đồ sộ do chính tay cụ viết và biên soạn cùng với khả năng thuyết trình hàng giờ đồng hồ, ít ai nghĩ rằng cụ đã ở tuổi 90.
Cầm bản cổ cuốn “Kim Vân Kiều truyện” Hán Nôm trên tay, cụ chia sẻ: “Sở dĩ có được những cuốn sách quý như vậy đều do sự tình cờ. Khi tôi ghé thăm một ngôi chùa tại tỉnh Đồng Tháp đã may mắn tìm được nó. Bây giờ, chỉ cần nhìn vào chất liệu giấy và mực của cuốn Hán Nôm trên cũng có thể đoán ra thời điểm dịch vào thế kỉ XIX, tức ngay khi cuốn gốc của đại thi hào Nguyễn Du ra đời”. Theo nhiều nhà phê bình, lí luận văn học, hiện bộ Kiều của Nguyễn Quảng Tuân được xem là một trong ít bộ sách đồ sộ của nước ta với hàng nghìn cuốn có giá trị văn học cao, có những cuốn Nôm cổ xuất bản năm 1866, được cụ phiên âm và dịch ra tiếng Việt.
Điều khiến mọi người cảm phục nhất vẫn là chặng đường viết sách và dịch thuật của cụ. Năm 1953, Nguyễn Quảng Tuân xuất bản quyển “Thanh Tâm Tài Nhân thi tập” đầu tiên và bắt đầu nghiên cứu về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cho đến nay, cụ không nhớ rõ mà tính sơ sơ rằng cỡ trên nghìn cuốn với độ dày mỗi cuốn dao động từ vài trăm đến cả nghìn trang. Ngoài ra, cụ còn có gần 400 bài nghiên cứu đã đăng trên tạp chí trong và ngoài nước. Giáo sư Trần Văn Khê từng nhận xét: “Mặc dù tôi biết nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân là một chuyên gia về Kiều nhưng dùng thể hát nói mà viết 1 bài tổng vịnh, 20 bài vịnh 20 hồi của nguyên truyện... quả không đơn giản chút nào. Phải là nhà thơ hiểu Truyện Kiều một cách thâm thúy, lại phải sành sỏi về hát nói mới có thể viết được một áng văn thơ như thế”. Với sự lao động không biết mệt mỏi, năm 2010, Nguyễn Quảng Tuân vinh dự được Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF) trao giải thưởng nhằm tôn vinh những đóng góp to lớn của cụ trong việc bảo tồn, phát huy và quảng bá di sản văn hóa chữ Nôm.
Dấu ấn của Nguyễn Quảng Tuân còn in đậm trong công tác nghiên cứu văn hóa Phật giáo. Vào đầu năm 1980, nhân dịp đi thăm những người bạn học thời trung học tại Hà Nội, cụ tình cờ gặp một người bạn am hiểu về nền văn hóa Phật giáo và đưa cụ đi đến tám ngôi chùa nổi tiếng trên địa bàn như chùa Trấn Quốc, Một Cột, Quán Sứ... Năm 1990, Nguyễn Quảng Tuân cho xuất bản cuốn “Những ngôi chùa danh tiếng” cùng nhiều công trình nghiên cứu về các ngôi chùa cổ nước ta.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Quảng Tuân còn là một nhà thơ với nhiều tác phẩm về ca trù. Đến nay, có tới 7 cuốn sách về ca trù do cụ sáng tác và được nhiều nghệ nhân biểu diễn từ Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Niềm đam mê ca trù là vậy nhưng khi nói về tương lai thể loại âm nhạc truyền thống này cụ vẫn đượm buồn và ưu tư. Hiện việc sinh hoạt của các hội ca trù tại TP Hồ Chí Minh hầu như không còn được duy trì do thiếu kinh phí hoạt động. Điều trăn trở nhất với cụ là người nghe và hiểu về thể loại âm nhạc bác học này không nhiều. “Có những lúc đi biểu diễn ca trù toàn quốc tại Hà Nội mà khán giả lại chính là những thành viên của các đoàn tham dự”, giọng Nguyễn Quảng Tuân nghẹn lại. Rồi cụ lo lắng: “Ca trù là thú chơi tao nhã của người xưa, không dành cho đám đông mà chỉ thu hẹp trong phạm vi một nhóm nhỏ, có tri thức, có tâm thế thưởng thức từ lời thơ, giọng hát tới nhịp phách, cung đàn. Việc biểu diễn ca trù trên sân khấu không khác gì giết chết ca trù”
Hà Phạm