Kỉ niệm 72 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ : Dũng sĩ diệt máy bay
Tuổi cao gương sáng 18/07/2019 14:33
Ông được tặng thưởng nhiều Huy chương, Huy hiệu, Chiến sĩ thi đua; được vinh danh "Dũng sĩ diệt Mỹ, ngụy". Ngày 28/5/2010, ông vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân...
Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng gắn Huy hiệu Anh hùng LLVT Nhân dân vinh danh ông Nguyễn Văn Nhương |
Ngày 22/1/1968, Trung đoàn 95C của ông hăm hở tấn công vào toàn bộ đội hình của Lữ đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ ở khu vực Khe Sanh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Nhiệm vụ của đơn vị là cùng một số phân đội DKZ và bộ binh áp sát căn cứ địch ở thung lũng sân bay Tà Cơn. Ta bao vây chặt, triệt phá sân bay, phối hợp với hỏa lực pháo binh tiêu diệt các trận địa pháo của địch, cắt đứt đường tiếp tế của địch. Bị đánh mạnh, địch dùng máy bay B52 phối hợp xe tăng, đại bác quyết liệt tấn công, đánh bom rải thảm liên tục suốt ngày đêm; còn pháo bầy, loại máy bay vận tải C130 thì bay thấp để tiếp tế cho đồng bọn. Ban đêm chúng thả pháo sáng, quan sát, nắm tình hình bộ đội ta di chuyển; ông và đồng đội phải nằm rạp xuống và ngụy trang bằng cỏ tranh để khỏi bị lộ. Cả Sư đoàn vượt qua 20km hàng rào Mac Namara để bao vây căn cứ Tà Cơn. Nhằm triệt tiếp tế của địch, đơn vị áp sát sân bay, trong đó Khẩu đội pháo của ông bố trí đối diện với đường băng sân bay để tiêu diệt địch khi ra lấy hàng. Khẩu đội của ông chỉ cách sân bay hơn 100 mét. Đòn tấn công này của Khẩu đội ông hoàn toàn bất ngờ đối với quân địch. Sau khi trinh sát, ông cùng Khẩu đội vào làm hầm cho pháo. Đơn vị ông lợi dụng pháo sáng để đào hầm. Đào xong công sự cho pháo, rồi lấy cỏ tranh ngụy trang và bôi tro đất lên người để hóa trang. Khẩu đội ông chỉ được đưa 5/12 người vào đội hình chiến đấu để đảm bảo bí mật.
Một hiện vật trưng bày tại Di tích lịch sử Sân bay Tà Cơn. Ảnh IT |
Ban ngày cũng như ban đêm máy bay cấp tập lên xuống sân bay Tà Cơn. Bọn địch dùng B52, B57 đánh chặn đường tiếp tế và dùng xe tăng, xe bọc thép liên tục phản kích vào trận địa của ta. Đặc biệt, chúng đánh vào các điểm hỏa lực bắn thẳng của ta ở sát sân bay.
Bộ đội ta phải oằn mình chịu đói, khát. Nhiều đồng chí hi sinh, bị thương không đưa ngay về tuyến sau được phải nằm ở lại trận địa hoặc hi sinh trên đường về tuyến sau. Chỉ hơn 1 tháng chiến đấu, đã có hơn 100 đồng chí thương vong. Bản thân ông tuy bị thương vẫn xung phong ở lại, động viên anh em quyết tâm chiến đấu, trong khi 4/9 khẩu súng 12,7mm bị hư hủy. Các thiện xạ súng của Khẩu đội ông tha hồ trổ tài "săn" máy bay địch. Đại đội ông có 9 khẩu pháo phải để mỗi quả đồi một khẩu nhằm phân tán lực lượng, với phương châm: "Hỏa lực phân tán, hỏa khí tập trung".
Máy bay vận tải C130 của Quân đội Mỹ tham chiến năm 1972, hiện trưng bày ở Sân bay Tà Cơn. Ảnh IT |
Ngày thứ hai, sau khi đưa pháo vào, Khẩu đội được lệnh chiến đấu; dùng phương án bắn tỉa phát một để giữ bí mật và chiếc máy bay nào bổ nhào trúng tầm ngắm chắc chắn mới bắn vì bên ngoài không chi viện đạn vào được. Nếu lộ trận địa sẽ bị B52 rải thảm vì một đêm chúng rải thảm 5 lần, pháo bầy bắn hình bàn cờ. Thấy nhiều máy bay địch bị bắn cháy, địch thay đổi chiến thuật, hạ cánh ngược mà thả dù để tiếp tế. Phần lớn dù của chúng đều rơi vào trận địa của ta. Sau 3 ngày chiến đấu, địch phát hiện ra Khẩu đội pháo coi đây là cái gai phải nhổ bằng được. Bọn địch dùng pháo bắn tới tấp vào Khẩu đội của ông làm nòng pháo bị phạt ngang và tất cả anh em trong Khẩu đội đều bị thương mất sức chiến đấu. Chỉ còn lại mình ông vừa tự băng bó vết thương và cấp cứu đồng đội, vừa chiến đấu. Chờ đến tối, đơn vị mới cho người vào tải thương. Ông và bộ đội đã nhịn đói, nhịn khát mấy ngày. Ban đêm ông trải ni lông ra để hứng sương lấy nước nhấp cho qua cơn khát.
Trải qua gần 40 ngày đêm chiến đấu, Đại đội ông đã bắn rơi 17 máy bay, diệt nhiều tên địch, trong đó ông diệt được 7 máy bay.