“Giữ lửa” cho nghề truyền thống
Xã hội 15/02/2023 10:15
Hình thành hơn trăm năm, làng đan lát ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang được công nhận làng nghề truyền thống năm 2006. Từ tre, trúc, những người thợ lành nghề đã biến hóa thành hàng chục sản phẩm sử dụng thân thuộc trong đời sống sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Khi đặt chân đến làng nghề là những lớp nhà khang trang, ngõ lối đều tinh tươm, sạch sẽ. Trước sân nhà, nguyên liệu và các thành phẩm vừa hoàn thành luân phiên được bày ra đón nắng. Không có những âm thanh ồn ào, bên trong, không khí làm việc rất nhịp nhàng, mỗi người một công đoạn, lặng lẽ và bình yên. Nghề này cần nhất là sự tỉ mỉ, dù đã quen tay, từng thao tác nhỏ vẫn phải cần mẫn chau truốt. Ngoài máy chẻ trúc, tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm đến nay vẫn làm thủ công...
Xóm lò đất Phú Tân, tỉnh An Giang. |
Làng nghề hiện có hơn 80 hộ, với 350 lao động, giảm khoảng 20% so trước đây. Số hộ sản xuất tập trung nhiều nhất tại 2 ấp Long Mỹ 2 và Long Phú. Mỗi sản phẩm phải trải qua chục công đoạn, tạo cơ hội việc làm cho nhiều lao động ở độ tuổi khác nhau, thu nhập dao động từ 40.000 - 200.000 đồng/người/ngày. Theo tài nghệ, kĩ thuật đan, đôi tay người thợ làm ra rổ, thúng, xề, mẹt, nia, nẻng... Mỗi loại lại phân ra nhiều kích cỡ khác nhau. Những đồ dùng thân thuộc trong đời sống hiện nay tuy không còn thịnh hành, nhưng chúng lại được tiêu thụ tốt theo nhiều mục đích mới của khách hàng, thị trường của các sản phẩm cũng rất rộng lớn.
Mấy năm nay, bên cạnh sản phẩm truyền thống, làng nghề còn làm thêm các mẫu mi-ni theo yêu cầu của khách. Sản phẩm càng nhỏ, giá thành lại càng cao, vì phải đan rất tỉ mỉ, công phu, có cái gấp đôi giá so loại thông thường. Đặc biệt, những cái mẹt, thúng, rổ... thu nhỏ được tiêu thụ mạnh cho mục đích làm quà lưu niệm, trang trí, sử dụng trong quán ăn, nhà hàng.
Trân trọng những khách hàng quen đã gắn bó giúp làng nghề tồn tại bao năm qua, có thời điểm giá nguyên liệu tăng, nhưng làng nghề vẫn giữ nguyên giá bán khi đưa sản phẩm ra thị trường. Từ đây, hàng ngàn vật dụng bình dân được phân phối sỉ và lẻ đi khắp các tỉnh, nhiều nhất là các tỉnh Đồng Tháp, Long An, TP Hồ Chí Minh,...
Yên bình, sung túc là nhịp sống được giữ bền vững suốt thời gian qua ở làng nghề đan lát. Tròn 1 thế kỉ, nghề đan lát đem lại sự ấm no cho hàng trăm hộ trong vùng.
Rời làng nghề đan lát, chúng tôi qua phà Năng Gù, theo Tỉnh lộ 951 hướng về thị xã Tân Châu, địa phận xã Phú Thọ, huyện Phú Tân được nhận diện bằng những hàng lò đất phơi nắng trước mỗi sân nhà. Nhiều người quen gọi nơi đây là “xóm lò đất”, vì có đến hàng chục hộ sản xuất.
Các hộ làm lò đất tập trung sát mé sông, thuận tiện cho việc giao thương, vận chuyển bằng đường thủy từ xưa. Ngày nay, điều kiện vận chuyển đã dễ dàng hơn, số ít hộ vào khu dân cư sinh sống cũng có thể an tâm giữ lại nghề để tiếp tục làm kế sinh nhai.
Như bao nghề truyền thống khác, do có thời điểm hàng làm ra khó tiêu thụ, số hộ làm lò đất dần thu hẹp dần. Thêm vào đó, lớp trẻ ngày nay không mặn mòi với việc từ sáng đến tối vất vả “chân lấm tay bùn” để nối nghề của gia đình. Còn lại những NCT vẫn kiên nhẫn ngày ngày quần quật với... đất, không chỉ để mưu sinh, bởi họ rất nặng lòng với nghề của ông bà truyền lại, nhất là những nhà không có đất làm nông, nhờ chăm chỉ nắn lò qua mưa nắng mà nuôi con cháu khôn lớn. Từng công đoạn thủ công đều nặng nhọc, người “xóm lò đất” chỉ cười xòa: “Cực lắm, cả ngày cúi mặt nhào nặn đất, mới xong được một mẻ lại tất tả kéo bạt che mưa. Vậy mà không bỏ được! Chắc bởi quen mùi bùn đất...”.
Những người làm nghề chắc hẳn họ vẫn “mê” hơi đất, hơi lò, song để tồn tại, một số hộ đã có ngã rẽ linh hoạt hơn. Ngoài lò củi, họ còn làm nhiều sản phẩm khác, như: Nồi om, khuôn bánh, nồi đất kho quẹt, ấm trà, niêu cơm...
Máy móc hỗ trợ một phần, giúp các sản phẩm làm ra nhanh hơn, đẹp hơn. Khởi đầu từ một hộ, sau đó được nhiều hộ trong xóm lò bắt nhịp chuyển hướng, thị trường cần gì thì họ tập trung sản xuất sản phẩm đó. Nguyên liệu làm lò đất cũng như các sản phẩm mới vẫn là đất sét mua ở Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, đặc trưng tính dẻo mịn, làm ra sản phẩm vừa bền, vừa đẹp. Còn những “ông táo” truyền thống sau khi nung lửa hàng chục tiếng đồng hồ đã “chín” thành màu gạch tươi rói. Có nơi, lò đất sẽ được gắn thêm vỉ thông gió, bao bọc lớp nhôm bên ngoài để tăng tuổi thọ sử dụng.
Dù ngày nay, bếp gas, bếp từ phổ biến, lấn lướt vai trò thông dụng của lò củi, nhưng người ta không lo chiếc bếp bằng chất liệu đất mộc mạc biến mất khỏi đời sống. Nhu cầu sử dụng lò bếp vẫn ổn định ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi đợt giáp Tết, hàng ngàn chiếc lò vẫn ngược xuôi theo các chuyến hàng được chọn mua để đổi “ông Táo” cho năm mới.
Loại lò đất con giờ lại được dân thành thị yêu thích để chế biến món nướng, món kho. Kể cả mấy khuôn bánh, nồi om không hẳn được mua để sử dụng đúng mục đích nấu nướng. Mà đáp ứng nhu cầu trưng bày như một món thủ công mĩ nghệ, tái hiện không gian và nếp sống xưa.
Một sản phẩm giá chỉ vài chục ngàn đồng, thành ra đồng lời kiếm được không cao. Bù lại, nhờ số lượng bán nhiều, nên các hộ còn bám nghề tới nay vẫn sống ổn. Hằng tháng, bến sông vẫn tấp nập không khí làm việc. Càng về cuối năm, nhịp sống càng rộn rã và xôm tụ.