Người cao tuổi đề nghị xem xét lại quyết định theo thủ tục đặc biệt
Pháp luật - Bạn đọc 26/06/2024 17:34
Nội dung vụ án
Căn nhà số 132/1B/67 Tô Hiến Thành, phường 15, quận 10, TP Hồ Chí Minh (đến cuối năm 2012 đổi sang số 40/1A Nguyễn Giản Thanh, phường 15, quận 10) do vợ chồng ông Đỗ Quốc Chinh, bà Vũ Thị Hà tự xây cất, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Ngày 10/11/2009, ông Chinh, bà Hà (bên A) kí hợp đồng cho vợ chồng ông Huỳnh Kim Đạt (63 tuổi), bà Huỳnh Phụng (bên B) thuê căn nhà trên để kinh doanh.
Theo Hợp đồng cho thuê, bên A không lấy tiền thuê nhà trong 2 năm (từ ngày 10/11/2009 đến 10/11/2011); bên B cho bên A mượn số tiền 200 triệu đồng, thời hạn 2 năm không tính tiền lãi. Hết hạn thuê, bên B trả lại nhà, bên A hoàn lại 200 triệu đồng.
Căn nhà tranh chấp. |
Ngày 1/12/2011, hai bên tiếp tục lập hợp đồng thuê nhà mới. Theo đó, bên A cho bên B thuê nhà trong thời gian 5 năm (từ ngày 1/12/2011 đến 30/12/2016) với giá 7 triệu đồng/tháng. Bên B đưa trước cho bên A 300 triệu đồng, số tiền này được trừ vào tiền thuê nhà hằng tháng.
Ngày 1/7/2014, ông Chinh, bà Hà kí hợp đồng bán toàn bộ nhà đất 40/1A Nguyễn Giản Thanh cho vợ chồng ông Đạt, bà Phụng với giá 2 tỉ đồng. Tại Hợp đồng này, hai con ông Chinh - bà Hà là Đỗ Quốc Anh và Đỗ Tùng Lâm cùng kí xác nhận.
Ngày 14/5/2015, ông Chinh khởi kiện, yêu cầu tuyên bố Hợp đồng mua bán nhà đất ngày 1/7/2014 vô hiệu, vì chưa được công chứng; ông Chinh hoàn trả 2 tỉ đồng cho bên mua nhà.
Ngày 27/9/2016, TAND quận 10 ban hành Quyết định số: 345 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà. Bên mua đồng ý thanh toán thêm cho ông Chinh, bà Hà 1,7 tỉ đồng, chia thành 3 đợt: Ngay sau khi có quyết định hòa giải thành, giao 500 triệu đồng; ngày 8/11/2016 giao 1 tỉ đồng; còn lại 200 triệu đồng giao khi hoàn tất thủ tục hợp thức hóa và sang tên giấy tờ nhà cho ông Đạt, bà Phụng.
Ngày 4/1/2017, Chánh án TAND quận 10, Cao Thanh Hùng kí Văn bản số: 01/TAQ10, đề nghị kháng nghị Giám đốc thẩm Quyết định số: 345; với lí do: Việc thỏa thuận giao nhận tiền của các đương sự có dấu hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của ông Chinh, bà Hà đối với Bản án số: 1297/2008/DSPT (Bản án số: 1297) ngày 30/10/2008 của TAND TP Hồ Chí Minh.
TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số: 175/2018/DS-GĐT ngày 15/5/2018, xử hủy Quyết định số: 345, giao hồ sơ vụ án cho TAND quận 10 giải quyết lại sơ thẩm. Theo Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm: Nhà đất tranh chấp theo chứng thư thẩm định, có giá trị gần 6,5 tỉ đồng; thời điểm TAND quận 10 ban hành Quyết định số: 345, ông Chinh, bà Hà đang phải thực hiện Bản án số: 1297; các bên thỏa thuận mua bán nhà giá 2 tỉ đồng là không phù hợp thực tế, có dấu hiệu tẩu tán tài sản, nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra, ông Chinh xuất trình Hợp đồng mua bán nhà đất kí ngày 1/7/2003 khác với Hợp đồng mà hai bên kí kết ghi ngày 1/7/2014. Thực tế có hai hợp đồng, nhưng chưa được làm rõ. Tòa cấp sơ thẩm bỏ sót người tham gia tố tụng là hai con của nguyên đơn.
Quyết định Giám đốc thẩm chưa xem xét tình tiết mới
Một, không có dấu hiệu tẩu tán tài sản, nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Bởi, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận 10 xác định bằng văn bản: Theo Bản án số: 1297, ông Chinh, bà Hà phải hoàn trả cho ông Nguyễn Ngọc Long và bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn 149,1 lượng vàng SJC và 24,94 triệu đồng. Quá trình thi hành án, Chi cục THADS quận 10 phát hiện ông Chinh đã bán nhà 40/1A Nguyễn Giản Thanh theo Quyết định số: 345 của TAND quận 10. Nhận thấy việc chuyển nhượng ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Long, bà Nhàn nên ngày 11/11/2016, Chi cục THADS quận 10 ra Quyết định số: 16 ngăn chặn giao dịch căn nhà trên.
Quyết định số: 175/2018/DS-GĐT (trang 1) ghi “...Hội đồng xét xử tái thẩm” và Quyết định số: 175/2018/DS-GĐT (trang 3) nêu “bản án dân sự phúc thẩm” không có trong hồ sơ vụ án. |
Tại biên bản làm việc ngày 8/12/2016, đại diện ông Long, bà Nhàn với ông Đạt và bà Phụng cùng thỏa thuận: Số tiền 500 triệu đồng ông Chinh đã nhận, ông Long, bà Nhàn không có yêu cầu; đối với 1,2 tỉ đồng còn lại, đề nghị ông Đạt và bà Phụng nộp tại Chi cục THADS quận 10 để xử lí theo quy định. Sau khi ông Đạt và bà Phụng nộp đủ 1,2 tỉ đồng, ông Long, bà Nhàn đồng ý để các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà, ông không thắc mắc, khiếu nại đối với Quyết định số: 345.
Căn cứ Quyết định số: 345 đã có hiệu lực pháp luật và đơn yêu cầu thi hành án của ông Đạt, ngày 15/12/2016, Chi cục THADS quận 10 ra Quyết định thi hành án và tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Sau khi ông Đạt và bà Phụng nộp đủ số tiền thi hành án, căn cứ quy định pháp luật, Chi cục THADS quận 10 đã ra các quyết định cưỡng chế thi hành án, chuyển số tiền ông Chinh, bà Hà được nhận sang nộp án phí, thu phí thi hành án vào ngân sách; số còn lại chi trả cho ông Long, bà Nhàn.
Ngày 16/12/2016, Chi cục THADS quận 10 ra Quyết định số: 33 giải tỏa việc ngăn chặn đối với nhà đất 40/1A Nguyễn Giản Thanh.
Có thể thấy, Quyết định số: 345 của TAND quận 10 đã được Chi cục THADS quận 10 thi hành xong. Việc Chánh án TAND quận 10 Cao Thanh Hùng kí Văn bản số 01/TAQ10, đề nghị kháng nghị Giám đốc thẩm Quyết định số: 345, vì cho rằng các đương sự có dấu hiệu “trốn tránh” nghĩa vụ thi hành Bản án số: 1297 đã không còn tồn tại; điểm mấu chốt mà Chánh án TAND quận 10 đưa ra đã được giải quyết xong nên không thể lấy làm căn cứ để đề nghị kháng nghị.
Luật sư Mai Lưu Phúc, đại diện cho bị đơn |
Hai, Quyết định Giám đốc thẩm số: 175/2018/DS-GĐT ngày 15/5/2018 (Quyết định số: 175), có nhiều nội dung mâu thuẫn.
Thứ nhất, vụ án được Chánh án TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nhưng Quyết định số: 175 lại ghi “Hội đồng xét xử tái thẩm”. Quyết định số: 175 áp dụng các Điều 351, Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án là chưa phù hợp trong việc áp dụng pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ hai, Quyết định số: 345 của TAND quận 10 bị kháng nghị nhưng Quyết định số: 175 lại “hô biến” thành “bản án dân sự phúc thẩm”.
Thứ ba, nhà đất 40/1A Nguyễn Giản Thanh chưa được cấp Giấy chứng nhận chủ quyền, nhưng Quyết định số: 175 xác định nhà, đất do ông Chinh, bà Hà “đứng tên chủ sở hữu” là không đúng thực tế về nhà; còn về đất thì chỉ được nói ông Chinh, bà Hà có chủ quyền sử dụng đất (nếu có), chứ không thể nói ông Chinh, bà Hà đứng tên chủ sở hữu đất.
Thứ tư, nhà đất được hai bên thỏa thuận nâng giá mua bán lên 3,7 tỉ đồng, thể hiện rõ trong Quyết định số: 345. Tuy nhiên, Quyết định số: 175 xác định số tiền mua bán nhà là 2 tỉ đồng. Đây là điểm mấu chốt để làm căn cứ giám đốc thẩm là có dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng.
Ba, Hợp đồng mua bán nhà đất đề ngày 1/7/2003 thể hiện là tình tiết mới. Hồ sơ vụ án thể hiện hợp đồng mua bán nhà đất ngày 1/7/2003 là không có thật. Bởi lẽ: đến năm 2009 căn nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Chinh, bà Hà nên mới kí Hợp đồng ngày 10/11/2009 cho vợ chồng ông Đạt, bà Phụng thuê trong 2 năm. Sau đó, hai bên kí tiếp hợp đồng thuê mới thời gian 5 năm.
Ngày 24/12/2012, UBND quận 10 ban hành Văn bản số: 34/UBND-CNSN “chứng nhận số nhà”, xác định: “Căn nhà bà Vũ Thị Hà (vợ ông Chinh) đang sử dụng được mang số 40/1A Nguyễn Giản Thanh, phường 15, quận 10”. Do đó, đến cuối năm 2012, căn nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Chinh, bà Hà và được đổi sang số nhà mới là 40/1A Nguyễn Giản Thanh (số cũ là số 132/1B/67 Tô Hiến Thành, phường 15, quận 10). Điều này thể hiện: “Hợp đồng mua bán nhà đất số 40/1A Nguyễn Giản Thanh ngày 1/7/2003” là không có thật; TAND quận 10 căn cứ Hợp đồng mua bán nhà ngày 1/7/2014 để ra Quyết định số: 345 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là có cơ sở, đúng thực tế diễn ra.
Liên quan đến vụ việc, luật sư Mai Lưu Phúc, Trưởng Chi nhánh Công ty Luật HQC cho biết: “Thực tế, nhà đất số 40/1A Nguyễn Giản Thanh chưa có giấy chủ quyền, hai bên đã thỏa thuận và Tòa án đã ra Quyết định công nhận thỏa thuận thành, mua bán giá 3,7 tỉ đồng và không có ai khiếu nại về giá. Chi cục THADS quận 10 đã thi hành án xong Quyết định số: 345, việc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án không xảy ra, phía được thi hành Bản án số: 1297 cũng không có khiếu nại hay tố cáo.
Có những dấu hiệu: Nguyên đơn cố tình cung cấp hợp đồng mua bán nhà đất đề ngày 1/7/2003 không có thật để làm cơ sở yêu cầu giám đốc thẩm; TAND quận 10 và TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, không xem xét chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có phù hợp với các tình tiết, diễn biến toàn bộ sự việc hay không, dẫn đến việc ra quyết định giải quyết vụ án dựa trên tài liệu không có thật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị đơn.
Việc thực hiện thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao là cần thiết, cần xem xét, đánh giá lại một cách khách quan toàn bộ vụ án này khi Quyết định giám đốc thẩm có quá nhiều dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng cả tố tụng lẫn nội dung. Đặc biệt cần phải xem xét có hay không dấu hiệu tội xâm phạm hoạt động tư pháp khi Tòa án sử dụng “Hợp đồng mua bán nhà đất số 40/1A Nguyễn Giản Thanh ngày 1/7/2003” có dấu hiệu giả để kháng nghị giám đốc thẩm?”
Nguyện vọng của người cao tuổi
Bà Huỳnh Phụng cho biết: “Tại TAND quận 10, Luật sư đại diện cho bị đơn đề nghị Thẩm phán chủ tọa phiên hòa giải là yêu cầu thư kí phải ghi chép đầy đủ nội dung các đương sự phát biểu; trong đó có nội dung nguyên đơn là ông Chinh có “thừa nhận Hợp đồng năm 2003 là giả cách”. Sau phiên hòa giải, chúng tôi có đề nghị: Hội đồng xét xử có yêu cầu ông Chinh trả lời cho Hội đồng xét xử biết “động cơ mục đích gì để lập hợp đồng giả cách năm 2003?”. Hội đồng xét xử có quan điểm xem xét giải quyết như thế nào về hành vi lập hợp đồng giả cách này?
Hồ sơ thể hiện vụ án có tình tiết mới là: Hợp đồng năm 2003 có dấu hiệu giả cách, nhưng chưa được xem xét, giải quyết. Trong khi, giải quyết tình tiết mới quan trọng này có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao. Đây là cơ sở để bị đơn chúng tôi kính đề nghị Ủy ban Tư pháp của Quốc hội xem xét theo thủ tục đặc biệt đối với quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao được quy định tại Điều 385 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”.