Mù Cả - nơi sáng tình con chữ
Đời sống 18/11/2022 09:47
Chọn nơi gian khó nhất
Bây giờ cụ Bôn đã ngoài tuổi bát thập, có vầng trán rộng và hai gò má cao, nhưng lời nói, việc làm vẫn luôn chậm rãi. Cụ kể, khi lên sáu tuổi đã mồ côi, nhưng vẫn nhớ những lời dạy dỗ của cha mẹ và lớn lên trong sự đùm bọc của làng xóm. Học hết lớp 9, cụ vào công tác ở Ty Thủy lợi Hà Đông. Năm 1965, cụ đi học Trường Sư phạm sơ cấp Trung ương (nay thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương) rồi về dạy học ở Thái Bình. Theo lời kêu gọi của Đảng, cụ xung phong lên dạy học ở Tây Bắc (khi đó còn là khu tự trị Thái Mèo). Cụ vẫn nhớ như in trước lúc lên đường, Bác Hồ đến động viên các giáo viên. Bác nói: “Nếu cháu nào sức khỏe yếu, có bệnh thấp khớp hay bệnh tim thì nên ở lại”. Ai cũng xúc động, nghẹn ngào nhưng không ai muốn ở lại mà đều náo nức xung phong lên vùng cao.
Nhà giáo Anh hùng Nguyễn Văn Bôn, thứ 2 từ trái sang, trong hành trình đi bộ leo núi trở lại Mù Cả huyền thoại |
Những ngày đầu tiên của người thầy chưa đến 20 tuổi đó nhận nhiệm vụ lên cắm bản chỉ có chiếc chăn chiên, vài ba bộ quần áo, chiếc áo bông và nắm thuốc kí ninh để chống sốt rét. Những gì khó khăn phía trước bắt đầu ập đến, đó là suối sâu, vực thẳm dốc cao, khí hậu, thời tiết, muỗi, vắt và cả sự hoang vắng của núi rừng. Khi dừng ở Sơn La, được các đồng chí địa phương giới thiệu về những khó khăn gian khổ, thiếu thốn, nghèo đói của Tây Bắc mà những người giáo viên xung phong phải trực diện đối mặt. “Đương nhiên chúng tôi không sợ hãi, mà trong lòng chỉ thấy thương bà con mình, vì thế càng quyết chí phải làm được điều gì đó để họ vượt qua - Cụ Bôn xúc động tâm sự.
Mấy ngày trời ròng rã ngồi trên chiếc xe dã chiến từ Sơn La vào đến thị trấn Lai Châu (nay là Mường Lay), đường xấu đến mức người ngồi trên xe cứ bị văng từ thành xe bên này sang thành xe bên kia. Từ thị trấn Lai Châu, các cụ phải cuốc bộ mất ba ngày trời nữa mới vào đến Mường Tè. Huyện lị hoang vắng, chỉ có vài ba dãy nhà lá đơn sơ của cán bộ chứ chẳng có nhà dân sinh sống. Ngay hôm sau, các thầy giáo cắm bản được một người đàn bà Hà Nhì dẫn vào xã Mù Cả. Ước tính toàn xã có khoảng 500 dân, sống rải rác ở 11 bản. Cả cán bộ lẫn người dân đều không biết nói và viết tiếng phổ thông, Ủy ban xã phải thuê một người Thái biết cả tiếng Hà Nhì và tiếng Kinh lên phiên dịch cho thầy giáo suốt một năm trời, đó cũng là một năm đầy thử thách mà cụ Bôn học tiếng Hà Nhì.
Dựng trường, mở lớp bằng cả trái tim
Việc đầu tiên cụ Bôn làm ở đây là bàn với cán bộ và bà con mở trường, dạy chữ cho khoảng 40 em tuổi từ 7 - 12 trong toàn xã. Cụ vận động bà con chặt gỗ, tre để dựng lớp, ghép bàn ghế cho các em ngồi học. Bấy giờ có thể nói “trường ông Bôn” là công trình công cộng đầu tiên duy nhất ở Mù Cả này. Xong “công trình ấy, cụ ngồi khóc vì thành quả mà mình có được sau bao ngày đêm trăn trở.
Cụ xúc động hồi tưởng: “Trước ngày khai giảng, tôi mất ngủ mấy ngày liền, vì xúc động và trăn trở. Đúng giờ tập trung, các em học sinh ùa vào lớp như đàn chim non, quần áo các em không rách rưới, mắt đứa nào đứa ấy cũng ánh lên niềm lạc quan pha lẫn rụt rè nhìn tôi. Tôi nhớ đó là ngày10/9/1959, tôi dạy các em cách gọi thầy, cách xưng hô tên mình. Buổi đầu lên lớp thầy giáo chỉ có một hộp phấn, một quyển sách vỡ lòng, tôi viết trực tiếp lên bảng, tiếng trẻ đọc vang vang, vui lắm. Các em không có giấy bút, mà tập viết vào cổ tay mình cho thầy xem. Nhìn 40 cánh tay trong trẻo và ngộ nghĩnh giơ lên, thấy học trò chăm chú uốn cổ tay theo thầy, lòng tôi cảm thấy ấm áp vô ngần”.
Sau buổi học hôm ấy, thầy giáo Bôn phải lấy lá chuối gấp thành những cuốn sách gọi là sách lá chuối cho các em cùng tập viết bằng bút gỗ. Vậy là bút gỗ viết trên lá chuối tươi đã giúp các em gọi con chữ về. Hầu hết các em ở nội trú, ngày ngày chỉ phải lên lớp một buổi nên thầy luôn nghĩ ra nhiều việc, nhiều trò chơi để các em vơi đi nỗi nhớ nhà. Thầy nhặt những quả bưởi khô dạy các em đá bóng, tổ chức cùng đi hái nấm, bẻ măng, bắt cá về cải thiện bữa ăn, ăn không hết thì phơi khô cất đi dự trữ. Thầy trò học mà chơi, chơi mà học, vui lắm! Ấy vậy mà có lần lớp học suýt dở dang. Đó là một buổi tối sau khai giảng được chừng nửa tháng, thầy đi kiểm tra nơi ăn chốn ở của học trò, thì giật mình thấy có những lán vắng trẻ, tìm đến một vài ngôi lán rộng rãi thì thấy các em ở trần nằm ngủ. Thầy quát tất cả dậy bảo các em mau mau mặc quần áo và nhà nào về nhà nấy. Hôm sau chỉ có những em ở bản Mù Cả đến lớp, còn các em ở các bản xa đều vắng. Thầy tìm hiểu kĩ mới bàng hoàng sửng sốt khi biết nơi đây còn tàn dư của nạn quần hôn, nên họp gấp cán bộ và dân, kịch liệt đả phá hủ tục này. (Còn nữa)